Chương 1: TỔNG QUAN VỀ INCOTERMS 2000
1.1.Giới thiệu về Incoterms 2000
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất kinh tế thế giới được phục hồi buôn bán quốc tế được phát triển và mở rộng. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại phát triển giữa các quốc gia, khi các thương nhân quốc tế bất đồng về ngôn ngữ chịu sự điều tiết khác nhau về tập quán thương mại dễ dẫn tới hiểu nhầm tranh chấp thương mại kiện tụng. Phòng thương mại quốc tế tai Pải đã xây dựng điều kiện thương mại quốc tế đầu tiên vào năm 1936. Lập tức Incoterms được nhiều nhà doanh nghiệp áp dụng vì tính rõ ràng dễ hiểu phản ánh được tập quan thương mại trên thị trường buôn bán quốc tế.
Ngoài ra, khi môi trường và điều kiện kinh doanh quốc tế thay đổi thì Incoterms cũng được hoàn thiện và thay đổi mới hơn theo biểu hiện tính năng động và thực tiễn. Thật vậy, từ ngày ra đời đến nay Incoterms đã được sửa đổi bổ sung 6 lân ở các năm: 1953, 1967, 1976, 1980, 1990, 2000. Incoterms 2000 có 13 điều kiện.
1.2. Mục đích và phạm vi áp dụng của Incoterms
Mục đích của Incoterms là cung cấp một bộ quy tắc quốc tế để giải thích những điều kiện thương mại thông dụng nhất trong ngoại thương. Từ đó có thể tránh được hoặc ít nhất là giảm được đáng kể sự không chắc chắn do cách giải thích khác nhau về những điều kiện đó tại các nước khác nhau.
Nhiều khi các bên ký kết hợp đồng không biết rõ những tập quán thương mại cua nước bên kia. Việc đó có thể gây ra những sự hiểu lầm, những vụ tranh chấp và kiện tụng gây ra sự lãng phí thời gian và tiền bạc. Để giải quyết vấn đề này Phòng thương mại Quốc tế đã xuất bản lần đầu tiên năm 1936 một bộ quy tắc quốc tế để giải thích các điều kiện thương mại. Những quy tắc đó được mang tên Incoterms 1936 việc sửa đổi bổ sung bộ quy tắc đó được tiến hành vào năm 1953, 1967, 1976, 1980, 1990 và lần cuối cùng là vào năm 2000 nhằm làm cho nó phù hợp với những thực tiễn thương mại hiện hành.
Cần nhấn mạnh rằng phạm vi áp dụng của Incoterms chỉ giới hạn ở những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa, đối với việc giao hàng hóa.
Thường có hai sự hiểu nhầm về Incoterms. Thứ nhất, Incoterms nhiều khi được hiểu là áp dụng cho hợp đồng vận tải hơn là hợp đồng mua bán hàng hóa. Thứ hai, đôi khi người ta hiểu sai các điều kiện này quy định tất cả các nghĩa vụ mà các bên muốn đưa vào trong một hợp đồng mua bán hàng hóa.
ICC luôn lưu ý rằng incoterms chỉ quy định về quan hệ giữa người bán và người mua thuộc hợp đồng mua bán hàng hóa, và hơn nữa chỉ quy định về những khía cạnh rất cụ thể mà thôi.
Một điều thiết yếu đối với các nhà xuất khẩu và các nhà nhập khẩu là phải xem xét mối quan hệ thực tiễn giữa nhiều hợp đồng khác nhau cần thiết để thực hiện một giao dịch mua bán mua bán hàng hóa quốc tế trong đó không chỉ cần có hợp đồng mua bán hàng , mà còn cả hợp đồng vận tải, bảo hiểm và tài chính, trong khi đó, Incoterms cgir liên quan duy nhất tới một trong số các hợp đồng này, đó là hợp đồng mua bán hàng hóa.
Tuy vậy việc các bên thỏa thuận sử dụng một điều kiện cụ thể của Incoterms sẽ mang một dụ ý có quan hệ mật thiết với hợp đồng khác. Ví dụ: một người bán hàng đã đồng ý một hợp đồng với điều kiện CFR hoặc CIF thì không thể thực hiện hợp đồng bằng bất kỳ phương thức vận tải nào mà chỉ được thực hiện việc cận chuyển hàng bằng đường biển, bởi vì theo các điều kiện CFR hoặc CIF người bán phải xuất trình một vận đơn bằng đường biển hoặc chứng từ hàng hải khác cho người mua, điều này không thể thực hiện được nếu sử dụng phương thức vận tải khác. Hơn nữa, chứng từ mà khoản tín dụng đòi hỏi sẽ phụ thuộc vào phương tiện vận tải được dự định sử dụng.
Thứ hai, Incoterms quy định một số nghĩa vụ được xác định cụ thể đối với các bên như nghĩa vụ của người bán phải đặt hàng hóa dưới sự định đoạt của bên mua hoặc chuyển giao hàng cho người chuyên chở hoặc giao hàng tới địa điểm quy định và cùng với các nghĩa vụ là sự phân chia rủi ro giữa các bên trong từng trường hợp.
Hơn nữa, các điều kiện của Incoterms nghĩa vụ làm các thủ tục thông quan cho hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu, bao bì đóng gói hàng hóa, nghĩa vụ của người mua về việc chấp nhận việc giao hàng cũng như việc chấp nhận nghĩa vụ cung cấp bằng chứng chứng tỏ nghĩa vụ tương ứng của bên kia đã được thực hiện đầy đủ. Mặc dù Incoterms cực kỳ quan trọng trong các hợp đồng mua bán hàng hóa, song còn nhiều vấn đề có thể xảy ra mà Incoterms không điều chỉnh, như việc chuyển giao quyền sở hữu và các quyền tài sản khác, sự vi phạm hợp đồng và các hậu quả của sự vi phạm hợp đồng cũng như những quy định về miễn trừ nghĩa vụ trong những hoàn cảnh nhất định. Cần nhấn mạnh rằng Incoterms không có ý định thay thế các điều khoản và điều kiện cần phải có trong hợp đồng đối với một hợp đồng mua bán hàng hóa hoàn chỉnh.
Nhìn chung, Incoterms không điều chỉnh hậu quả của sự vi phạm hợp đồng và bất kỳ sự miễn trự nghĩa vụ nào do nhiều trở ngại gây ra, các vấn đề này cần phải được giải quyết bởi các quy định khác trong hợp đồng mua bán hàng hóa và luật điều chỉnh hợp đồng đó.
Incoterms luôn luôn và chủ yếu được sử dụng khi hàng hóa được bán và giao tại biên giới quốc gia. Do vậy, Incoterms là các điều kiện thương mại quốc tế, tuy nhiên trong thực tế, có khi Incoterms được đưa vào hợp đồng mua bán hàng hóa trong nội địa thuần túy. Trong trường hợp Incoterms được sử dụng nhưu vậy, các điều kiện A2 và B2 và các quy định khác trong các điều kiện về xuất, nhập khẩu không được áp dụng.